Ăn mòn giữa các hạt khi hàn
Ăn mòn giữa các
hạt (IGC - Intergranular corrosion), cũng được hiểu như thâm nhập giữa các hạt (IGA - Intergranular
attack), là dạng ăn mòn ở đây các ranh giới của các hạt tinh thể của
vật liệu dễ bị ăn mòn hơn bên trong của chúng.
Hình 1 : Hình ảnh kính hiển vi của một mặt cắt ngang được
đánh bóng của một vật liệu bị tấn công bởi sự ăn mòn giữa các hạt.
Tình trạng này
có thể xảy ra trong các hợp kim chống ăn mòn khác, khi các ranh giới hạt bị cạn
kiệt, hiểu như là làm cạn kiệt biên giới hạt, của các nguyên tố ức chế ăn mòn
như chrom bởi một số cơ chế. Trong các hàm lượng nickel và các thép không gỉ austenit,
khi chrom được thêm vào để chống ăn mòn, cơ chế liên quan đến kết tủa của chrom
carbide tại các ranh giới hạt, dẫn đến sự hình thành các khu vực chrom bị cạn
kiệt tiếp giáp với ranh giới hạt (quá trình này được gọi là nhạy cảm hóa). Khoảng
12% chrom là yêu cầu tối thiểu để đảm bảo sự thụ động hóa, một cơ chế mà theo
đó một màng mỏng không thể nhìn thấy hình thành trên bề mặt của các thép không
gỉ. Lớp màng mỏng thụ động này bảo vệ kim loại khỏi các môi trường ăn mòn. Đặc
tính tự phục hồi lớp màng mỏng thụ động làm cho thép không gỉ. Sự thẩm thấu
chọn lọc thường liên quan đến các cơ chế cạn kiệt biên hạt.
Các khu vực này
cũng hoạt động như cặp điện phân cục bộ, gây ra ăn mòn điện phân cục bộ. Trạng
thái này xảy ra khi vật liệu bị nung nóng tới nhiệt độ khoảng 700 °C trong
thời gian dài, và thường xảy ra trong khi hàn hoặc xử lý nhiệt không phù hợp.
Khi các khu vực như vậy của vật liệu hình thành do hàn, dẫn đến ăn mòn được gọi
là “phân rã do hàn (weld decay)”. Các thép không gỉ có
thể được ổn định chống lại diễn biến này bằng bổ sung titan, niob, hoặc tantal,
khi đó sự hình thành titan carbide, niob carbide và tantal carbide được ưu tiên
hơn chrom carbide, bằng hậ thấp hàm lượng của carbon trong thép và trong trường
hợp của hàn, kim loại điền đầy cũng có hàm lượng carbon dưới 0.02%, hoặc bằng nung
nóng toàn bộ bên trên 1000 °C và tôi nó trong nước, dẫn đến sự phân hủy
của chrom carbide trong các hạt và sau đó ngăn chặn sự kết tủa của nó. Một khả
năng khác là để giữ cho các bộ phận hàn đủ mỏng như vậy sau khi làm nguội, kim
loại tán xạ nhiệt rất nhanh hạn chế sự kết tủa chrom carbide. ASTM A923, ASTM
A262, và các kiểm tra tương tự khác thường được sử dụng để xác định khi các thép
không gỉ nhạy cảm với ăn mòn giữa các hạt. Các kiểm tra yêu cầu tẩm thực với
các hóa chất để nhìn thấy được sự hiện diện của các hạt liên kim loại, đôi khi
kết hợp với kiểm tra Charpy V-Notch và các kiểm tra cơ học khác.
Một loại khác
có liên quan đến ăn mòn giữa các hạt được gọi là “ăn mòn đường dao - KLA (knifeline attack)”. Những tác động ăn mòn đường dao được ổn
định bằng niob, chẳng hạn như thép không gỉ 347. Titan, niob, và các carbide
của chúng hòa tan trong thép ở nhiệt độ rất cao. Tại một số chế độ làm nguội (tùy
thuộc vào tốc độ làm nguội), niob carbide không kết tủa và sau đó thép diễn
biến giống như thép không ổn định, sự hình thành chrom carbide được thay thế. Điều
này chỉ ảnh hưởng đến một khu vực mỏng rộng vài millimet trong vùng rất lân cận
của mối hàn, làm cho nó khó khăn bị vết đốm và tăng tốc độ ăn mòn. Các kết cấu
làm bằng thép như vậy được nung nóng tổng thể tới khoảng 1950 °F (1065 °C),
khi chrom carbide phân hủy và niob carbide hình thành. Tốc độ làm nguội sau khi
xử lý nhiệt này là không quan trọng, carbon khi đó, mà nếu không sẽ gây ra nguy
cơ hình thành chrom carbide, đã được cô lập như niob carbide.
Các hợp kim cơ
bản nhôm có thể nhạy cảm với ăn mòn giữa các hạt nếu có các lớp vật liệu hoạt
động như anode giữa các tinh thể giàu nhôm. Các hợp kim nhôm độ bền cao, đặc
biệt là khi ép đùn hoặc chịu mức độ làm việc cao khác, có thể xảy ra ăn mòn tách
lớp, ở đây ăn mòn phát triển trong phạm vi các hạt dát phẳng, kéo dài và tách
rời chúng, dẫn tới tách lớp và thường lan truyền từ các cạnh của vật liệu thông
qua toàn bộ kết cấu của nó. Ăn mòn giữa các hạt là một mối quan tâm đặc biệt
đối với các hợp kim với hàm lượng đồng cao.
Các loại hợp
kim khác có thể trải qua tách lớp; sự nhạy cảm của đồng nickel tăng lên cùng
với hàm lượng nickel của nó. Một thuật ngữ rộng hơn cho loại ăn mòn này là “ăn mòn dạng phiến (lamellar corrosion)” Các hợp kim của sắt là nhạy cảm với ăn mòn
dạng phiến, khi các khối oxide sắt là cao hơn so với khối kim loại ban đầu
khoảng bảy lần, dẫn đến hình thành ứng suất kéo bên trong xé vật liệu. Ảnh
hưởng tương tự cũng dẫn đến hình thành dạng phiến trong các thép không gỉ, do
dự giãm nở nhiệt khác nhau của các oxide và kim loại.
Các hợp kim cơ bản
đồng trở nên nhạy cảm khi cạn kiệt hàm lượng đồng ở các ranh giới hạt xảy ra.
Các hợp kim không
đẳng hướng, khi ép đùn hoặc làm việc nặng dẫn đến hình thành các hạt kéo dài và
dát phẳng, đặc biệt dễ bị ăn mòn giữa các hạt.
Ăn mòn giữa các
hạt gây ra bởi các ứng suất môi trường được gọi là “ăn mòn nứt ứng suất (stress corrosion cracking)”. Ăn mòn
giữa các hạt có thể được phát hiện bằng các phương pháp kiểm tra siêu âm và kiểm
tra dòng điện xoáy (eddy current).
Ảnh hưởng nhạy cảm
Nhạy cảm đề cập tới sự kết tủa của các carbide
tại các ranh giới hạt trong thép không gỉ hoặc hợp kim, là nguyên nhân gây ra
thép hoặc hợp kim nhạy cảm với ăn mòn giữa các hạt hoặc ăn mòn nứt ứng suất
giữa các hạt.
Hình 2 : Cấu
trúc micro không bị nhạy cảm.
Hình 3: Cấu
trúc micro bị nhạy cảm nặng.
Các hợp kim nhất
định khi tiếp xúc với nhiệt độ được đặc trưng bởi nhiệt độ nhạy cảm trở nên đặc
biệt dễ bị ăn mòn giữa các hạt. Trong một bầu không khí ăn mòn, các bề mặt
chuyển tiếp hạt của các hợp kim bị nhạy cảm trở nên rất phản ứng và dẫn đến ăn
mòn rất giữa các hạt. Điều này được đặc trưng bởi ăn mòn cục bộ tại liền kề các
ranh giới hạt với tương đối ít ăn mòn của tự bản thân hạt. hợp kim phân ly (hạt
rời ra) và/hoặc làm tổn thất độ bền của nó.
Trong các hình 1
và 2 bên trên cho thấy cấu trúc micro điển hình của thép không gỉ loại 304
thường hóa (không nhạy cảm) và thép bị nhạy cảm nặng. Các mẫu đã được mài bóng
và tẩm thực trước khi thực hiện chụp ảnh, và các khu vực bị nhạy cảm thể hiện
là các đường rộng màu tối ở đây chất lỏng tẩm thực gây ra ăn mòn. Các đường màu
tối bao gồm các carbide và kết quả ăn mòn.
Ăn mòn giữa các
hạt thường được xem bị gây ra bởi sự phân tách của các tạp chất tại các ranh
giới hạt hoặc bằng làm giàu hoặc cạn kiệt của một trong các nguyên tố hợp kim
trong các diện tích ranh giới hạt. Vì vậy, trong các hợp kim nhôm chắc chắn, người
ta thấy một lượng nhỏ sắt đã bị phân tách ở các ranh giới hạt và gây ăn mòn
giữa các hạt. Ngoài ra, người ta cũng thấy hàm lượng kẽm của đồng thau cao hơn tại
các ranh giới hạt và cũng gây ra ăn mòn như vậy. Các hợp kim nhôm độ bền cao
chẳng hạn như các hợp kim loại Dura (Al-Cu), phụ thuộc vào các phase kết tủa để
tăng bền rất nhạy cảm với ăn mòn giữa các hạt sau nhạy cảm ở nhiệt độ khoảng 120 °C.
Các hợp kim giàu nickel chẳng hạn như Inconel 600 và Incoloy 800 thể hiện khả
năng nhạy cảm tương tự. Các hợp kim kẽm đúc có chứa nhôm biểu hiện bị ăn mòn giữa
các hạt bởi hơi nước và khí hậu biển. Các thép Cr-Mn và Cr-Mn-Ni cũng nhạy cảm
với ăn mòn giữa các hạt sau nhạy cảm trong phạm vi nhiệt độ 420°-850 °C. Trong
trường hợp các thép không gỉ austenit, các thép này bị nhạy cảm bởi nung nóng trong
phạm vi nhiệt độ khoảng 520° tới 800 °C, cạn kiệt chrom tại khu vực ranh
giới hạt xảy ra, dẫn đến khả năng nhạy cảm với ăn mòn giữa các hạt. Nhạy cảm của
các thép không gỉ austenit có thể dễ dàng xảy ra bởi vì các yêu cầu phục vụ
nhiệt độ, như trong máy phát hơi nước, hoặc kết quả của hàn.
Một số phương
pháp đã được sử dụng để kiểm soát hay giảm thiểu ăn mòn giữa các hạt của các hợp
kim nhạy cảm, đặc biệt là các loại thép không gỉ austenit. Ví dụ, xử lý nhiệt hòa
tan nhiệt độ cao, thường được gọi là hòa tan-ram, tôi-ram hoặc hòa tan-tôi, đã được
sử dụng. hợp kim được nung nóng tới nhiệt độ khoảng 1,060° tới 1,120 °C và
sau đó được tôi bằng nước. Phương pháp này thường là không phù hợp để xử lý tổ
hợp lớn, và cũng không hiệu quả khi hàn được sử dụng cho sửa chữa hoặc cho hàn
đính ghép các kết cấu khác.
Một kỹ thuật kiểm soát khác để ngăn chặn ăn mòn giữa
các hạt liên quan đến việc kết hợp với các tác nhân carbide mạnh hoặc các nguyên
tố ổn định như niob hoặc titan trong các thép không gỉ. Các nguyên tố này có ái
lực với carbon lớn hơn nhiều với chrom; sự hình thành carbide với các nguyên tố
này làm giảm carbon có sẵn trong hợp kim để hình thành chromium carbide. Hoặc
các thép không gỉ có thể giảm hàm lượng carbon ban đầu dưới 0.03% do đó không
đủ carbon được cung cấp cho sự hình thành carbide. Những kỹ thuật này tốn kém
và chỉ có hiệu quả một phần cho sự nhạy cảm có thể xảy ra theo thời gian. Các
thép carbon thấp cũng thường xuyên thể hiện độ bền thấp hơn ở nhiệt độ cao.
(Dipl.Eng.IWE/EWE-Nguyễn Duy Ninh)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét