Khái quát luyện
kim của thép carbon
Con đường tốt nhất để hiểu sự luyện kim của thép carbon là nghiên cứu ‘Biểu đồ sắt
carbon’. Biểu đồ được thể hiện dưới đây được dựa trên cơ sở sự chuyển hóa xảy ra là kết quả của nung nóng chậm. Sự làm nguội chậm sẽ làm giảm các nhiệt độ chuyển hóa; ví dụ: điểm A1 sẽ giảm từ 723°C tới 690 °C. Tuy nhiên các tốc độ nung nóng và làm nguội nhanh xảy ra trong hàn sẽ có sự ảnh hưởng đáng kể tới các nhiệt độ này, để dự đoán trước chính xác của luyện kim mối hàn
sử dụng biểu đồ này là khó khăn.
Austenit
Phase này chỉ tồ tại trong thép carbon tại nhiệt độ cao. Nó có cấu trúc
mạng nguyên tử lập phương diện tâm (F.C.C) có thể hòa tan tới 2,06% carbon.
Cementit Không
giống ferrit và austenit, cementit là hợp chất đa kim rất cứng gồm có 6.7%
carbon và số còn lại là sắt, ký hiệu hóa học của nó là Fe3C.
Cementit là rất cứng, nhưng khi được pha trộn với các lớp ferrit mềm kết quả là
giá trị trung bình độ cứng của nó được giảm đáng kể. Làm nguội chậm tạo ra
chiều hường tạo perlit; dễ dàng mềm về cơ tính nhưng độ dẻo dai kém. Làm
nguội nhanh hơn tạo ra các lớp rất mịn của ferrit và cementit; cứng hơn và dẻo
dai hơn.
Pearlit là sự pha trộn của các dải xen kẽ luân phiên của ferrit và cementit trong hạt đơn lẻ. Khoảng cách giữa các tấm và chiều dày của chúng phụ thuộc vào tốc độ nguội của vật liệu. Làm nguội nhanh tạo ra các tấm mỏng tiếp xúc gần nhau và làm nguội chậm tạo ra một cấu trúc thô có độ dẻo dai ít hơn. Tên cho cấu trúc này có nguồn gốc từ hạt nhỏ xuất hiện dưới kính hiển vi. Một cấu trúc hoàn toàn perlit xảy ra ở 0,8% Carbon. Tăng hơn nữa hàm lượng carbon sẽ tạo ra cementit tại các biên giới hạt, mà sẽ bắt đầu làm suy yếu thép.
Ferrit Phase này có cấu trúc mạng nguyên tử là lập phương
thể tâm (B.C.C) nó có thể giữ rất ít carbon; thông thường 0.0001% tại nhiệt độ
phòng. Nó có thể tồn tại hoặc là ferrit alpha hoặc ferrit delta.
Carbon là nguyên tử
xen kẽ rất nhỏ bên trong đám của các nguyên tử sắt. Nó làm tăng độ
bền của thép và tạo ra khả năng làm cứng bằng xử lý nhiệt. Nó cũng là
nguyên nhân chủ yếu về các vấn đề đối với hàn, đặc biệt là nếu nó vượt quá 0.25%
khi đó nó tạo ra cấu trúc micro cứng nhạy cảm với nứt hydro. Carbon tạo
thành các hợp chất với các nguyên tố khác được gọi là các carbid. Carbid sắt,
carbid crom vv…
Pearlit là sự pha trộn của các dải xen kẽ luân phiên của ferrit và cementit trong hạt đơn lẻ. Khoảng cách giữa các tấm và chiều dày của chúng phụ thuộc vào tốc độ nguội của vật liệu. Làm nguội nhanh tạo ra các tấm mỏng tiếp xúc gần nhau và làm nguội chậm tạo ra một cấu trúc thô có độ dẻo dai ít hơn. Tên cho cấu trúc này có nguồn gốc từ hạt nhỏ xuất hiện dưới kính hiển vi. Một cấu trúc hoàn toàn perlit xảy ra ở 0,8% Carbon. Tăng hơn nữa hàm lượng carbon sẽ tạo ra cementit tại các biên giới hạt, mà sẽ bắt đầu làm suy yếu thép.
Ferrit
= Các khu vực màu sáng
Cementit = Các khu vực màu tối
Làm nguội của thép dưới 0,8% carbon : Khi thép đông đặc nó hình
thành austenite. Khi nhiệt độ giảm xuống dưới
điểm A3, các hạt của
ferrit
bắt đầu hình thành. Khi nhiều hạt
ferrit
bắt đầu hình thành vẫn
còn austenit trở thành giàu carbon. Tại khoảng 723
°C austenit còn lại, khi
đó có chứa 0,8% carbon, biến
đổi thành perlit. Cấu
trúc kết quả là một hỗn hợp gòm có các hạt màu trắng của ferrit được pha trộn với các hạt màu tối của perlit.
Nung nóng về cơ bản là ngược lại.
Martensit Nếu thép được
làm nguội nhanh chóng từ austenite, cấu trúc FCC nhanh chóng thay đổi thành BCC không đủ thời gian cho các carbon để tạo thành perlit.
Điều này dẫn đến một cấu trúc bị biến dạng méo mó có
sự xuất hiện của các hình kim nhỏ. Không
có phần chuyển biến liên quan đến
martensite, nó hoặc là hình thành hoặc là không hình thành. Tuy nhiên, chỉ có các phần của mặt cắt làm nguội đủ nhanh sẽ hình thành mactenxit; trong mặt cắt dày nó sẽ
chỉ hình thành ở độ sâu nhất định, và nếu hình
dạng phức tạp nó chỉ có thể
hình thành các nhóm biệt lập nhỏ. Độ cứng của martensite là chỉ phụ thuộc vào hàm lượng
carbon, nó thường
rất cao, trừ khi hàm lượng carbon là đặc biệt thấp.
Martensit Martensit được tôi Được tôi nặng
Ủ (Tempering) Cacbon bị
mắc kẹt trong chuyển biến mactenxit có thể
được giải
thoát bằng cách nung nóng thép thấp hơn nhiệt độ chuyển biến A1. Sự giải thoát này của carbon
từ các khu vực có nhân cho phép cấu trúc biến
dạng dẻo và khôi phục lại một lượng ứng suất bên trong của nó. Điều này làm giảm độ cứng và tăng độ dẻo
dai, nhưng nó cũng có xu hướng
giảm độ bền kéo. Mức độ ủ là phụ thuộc vào
nhiệt độ và thời gian; nhiệt độ có ảnh hưởng
lớn nhất.
Ram (Annealing) Thuật ngữ này thường được sử dụng để xác định một quá trình xử lý nhiệt tạo ra một lượng làm mềm cấu
trúc. Ram đúng liên
quan đến sự nung
nóng thép austenit và giữ
trong một thời gian để tạo ra một
cấu trúc ổn định. Sau đó thép được làm nguội rất
chậm đến nhiệt
độ phòng. Qui trình này tạo ra một cấu trúc rất mềm, nhưng cũng tạo
ra các hạt rất lớn,
điều đó là không mong muốn vì độ dai nghèo
Thường hóa (Normalising) Trả cấu trúc trở lại bình thường.
Thép được nung nóng cho đến khi nó chỉ bắt
đầu hình thành austenite; sau đó
nó được làm nguội trong không khí. Sự chuyển biến tốc độ vừa phải này tạo ra các hạt
tương đối mịn với perlit
đồng nhất.
Hàn (Welding) nếu đường cong nhiệt độ cho một
mối hàn điển hình được vẽ ngược lại biểu đồ cân bằng carbon, một loạt các trạng thái khác nhau của chuyển biến và sử lý nhiệt sẽ được
quan sát.
Lưu ý, biểu đồ cân bằng carbon thể hiện ở trên chỉ mang tính
minh họa, trong thực tế nó sẽ
bị biến dạng rất nhiều vì
nung nóng nhanh và các tốc
độ làm nguội liên
quan đến các
quá trình hàn.
(a)
Hỗn hợp của hạt ferrit và perlit;
nhiệt độ bên dưới A1, do đó cấu trúc micro không bị ảnh hưởng đáng kể.
(b)
Perlit được chuyển hóa thành austenit,
nhưng không đủ
nhiệt độ có thể để vượt qua đường A3, do đó không phải tất cả các hạt ferrit chuyển hóa thành austenit. Làm nguội, chỉ có các hạt được chuyển hóa sẽ được thường hóa.
(c)
Nhiệt độ được vượt qua đường A3, chuyển hóa hoàn toàn austenit. Khi nguội, tất cả các hạt sẽ được thường hóa.
(d) Nhiệt độ vượt quá
đáng kể đường A3 cho phép các hạt phát triển. Làm nguội, ferrit sẽ hình thành tại các biên giới hạt, và
quá trình diễn biến perlit sẽ
hình thành bên trong các hạt. Quá trình diễn biến cấu trúc hạt dễ dàng bị cứng hơn
so với hạt mịn, do đó nếu tốc
độ làm nguội từ 800 °C đến 500 °C là rất nhanh, một
cấu trúc micro cứng sẽ được hình thành. Đây là lý do tại sao phá
hủy giòn rất có thể lan truyền trong khu vực này.
Các mối hàn (Welds) sự luyện kim của mối hàn là
rất khác so
với vật liệu cơ
bản. Kim loại hàn điền đầy được lựa chọn để tạo ra các mối hàn bền và dẻo
dai, chúng có chứa các hạt nguyên tử oxit mịn cho phép
hình thành mầm của hạt mịn. Khi mối hàn đông đặc, các
hạt của nó phát triển từ diễn biến cấu trúc hạt HAZ, ngoài ra sự tinh luyện (refinement) diễn
ra trong các hạt diễn biến này tạo ra sự
hình thành ferrit hình kim
điển hình thể
hiện đối ngược lại.
Tác
dụng của các nguyên tố hợp kim
Mangan
- Làm tăng lên độ bền và độ cứng; tạo
thành carbid; làm tăng khả năng tôi cứng; làm thấp phạm vi nhiệt độ chuyển hóa. Khi
có số lượng đủ ở thép austenit; luôn luôn có mặt trong thép với mức độ nào đó
với lý do nó được sử dụng như là nguyên tố khử oxit.
Silic
- Làm tăng cường ferrit và làm tăng
nhiệt độ chuyển hóa; có khuynh hướng graphit hóa mạnh. Luôn luôn có mặt
trong thép với mức độ nào đó, bởi vì nó được sử dụng với mangan như là nhân tố
khử oxit.
Crom
- Làm tăng lên độ bền và độ cứng; hình
thành các carbid cứng và ổn định. Nó làm tăng lên đáng kể nhiệt độ chuyển
hóa khi hàm lượng của nó vượt quá 12%. Làm tăng khả năng tôi cứng; Khi hàm
lượng vượt quá 12%, tạo thành thép không gỉ. Độ bền trườn dão tốt tại
nhiệt độ cao.
Nickel
- Tăng cường độ bền thép; làm giảm
phạm vi nhiệt độ chuyển hóa; làm tăng khả năng tôi cứng, và cải thiện khả năng
chịu mỏi. khuynh hướng hình thành graphit mạnh; ổn định austenit khi số lượng
đủ. Tạo thành các hạt mịn và đem lại độ dẻo dai tốt.
Nickel
và Crom - Được sử dụng đồng thời cho
thép không gỉ austenit; mỗi một nguyên tố làm mất tác dụng bất lợi của nhau.
Wolfram - Hình thành các carbid cứng và ổn định; tăng lên
phạm vi nhiệt độ chuyển hóa, và các nhiệt độ tôi và ram. Các thép wolfram
được tôi cứng chịu được tôi ram tới 600°C.
Molybden
- Nguyên tố tạo thành mạnh carbid, và
cũng cải thiện khả năng chống trườn rão nhiệt độ cao; làm giảm tính dòn tôi
trong các thép Ni-Cr. Cải thiện khả năng chống ăn mòn và tính dòn tôi.
Vanadi
- Nguyên tố tạo thành mạnh carbid; các
tác dụng lọc sạch tạp chất ở kim loại nóng chảy và làm sạch các sản phẩm, kể cả
không phải là thép. Có thể gây ra nứt nung nóng lại khi các thép được bổ xung crom.
Titan
- Nguyên tố tạo thành mạnh carbid. Không
được sử dụng tự mình, nhưng được thêm để ổn định carbid đối với các thép không
gỉ austenit.
Phosphor - Làm
tăng độ bền và khả năng tôi cứng, làm giảm tính dẻo và độ dẻo dai. Làm
tăng khả năng gia công và chống ăn mòn.
Lưu huỳnh - Làm
giảm độ dẻo dai và độ bền cũng như khả năng hàn. Các bọc tạp chất lưu huỳnh
thông thường có mặt trong thép, sẽ bị phân hủy gần nhiệt độ nóng chảy của mối
hàn. Khi nguội các sulphid và lưu huỳnh vẫn tồn tại kết tủa và hình thành
các lớp màng mỏng lỏng tại các biên giới hạt, do đó làm suy yếu đáng kể liên
kết biên giới hạt. Thép như vây được cho là bị cháy. Mangan phá vỡ
các màng mỏng này hình thành các giọt magan sulphid.
(Dipl.Eng.IWE/EWE-Nguyễn Duy Ninh)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét